TIỂU THUYẾT HỒ QUÝ LY NGUYỄN XUÂN KHÁNH, TIỂU THUYẾT HỒ QUÝ LY

Trong số các nhà văn dã sử của nền văn học hiện đại Việt Nam không thể không nhắc tới nhà văn Nguyễn Xuân Khánh với tiểu thuyết lừng danh “Hồ Qúy Ly”. Có thể nói Nguyễn Xuân Khánh là một cây đại thụ! Người ta chỉ nhận ra một cây đại thụ khi nó đã đủ lớn. Người đọc cũng chỉ biết đến ông từ sau khi “Hồ Qúy Ly” được xuất bản. Giữa lúc tình trạng văn học nước nhà vào những năm 90 đang rơi vào cảnh èo uột, không có tác phẩm nào đáng kể thì “Hồ Qúy Ly” như một cơn địa chấn lớn khiến độc giả bừng tỉnh.

Bạn đang xem: Hồ quý ly nguyễn xuân khánh

Canh tân qua góc nhìn của những nhân vật cùng thời đại

“Hồ Qúy Ly” không đơn thuần kể lại câu chuyện của thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15 mà nhà văn đang “ôn cố tri tân”. Cuốn sách không viết về nhân vật lịch sử Hồ Qúy Ly mà viết về thời đại của Hồ Qúy Ly. Chúng ta ai cũng biết Hồ Qúy Ly là một nhà cách tân thời kỳ phong kiến. Khi nắm quyền lớn trong tay, dưới một người mà trên muôn người, Hồ Qúy Ly đã đưa ra các cách tân quan trọng trong xã hội đương thời. Ông đề xuất giảm bớt những chính sách ưu đãi về phân chia điền địa với quý tộc nhà Trần. Trong hai thời đại Lý- Trần, Phật giáo được tôn vinh, nhiều thanh niên quy y cửa Phật, Hồ Qúy Ly bắt họ hoàn tục, cắt giảm quyền lợi của nhà chùa, và bắt đầu có những biểu hiện đầu tiên của “độc tôn Nho giáo” mà sau này nhà Lê đã thực thi một cách thành công. Ông thực hiện rất nhiều cách tân, nhưng cách tân quan trọng nhất chính là sử dụng tiền giấy. Với một loạt những cách tân đầy tiến bộ nhưng lại dồn dập trong thời gian ngắn ngủi và thời điểm không thích hợp có lẽ đã trở thành nguyên nhân thất bại của triều đại nhà Hồ. Tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh không những khắc họa chân thực không khí thời đại mà còn đưa ra rất nhiều điểm nhìn đối với cuộc cách tân.

Thành nhà Hồ - Tây Đô / Thanh Hóa

“Hồ Qúy Ly” có một cấu trúc đặc biệt. Mỗi chương viết về một nhân vật lịch sử trong thời đại ấy: Trần Nghệ Tông, Hồ Nguyên Trừng, Trần Khát Chân, công chúa Huy Ninh… và đương nhiên là có Hồ Qúy Ly. Cùng một cuộc cách tân ấy, mỗi người có một cách nhìn nhận, một thái độ và một phản ứng.

Câu chuyện được kể bằng ngôi thứ nhất – “tôi”, chính là Hồ Nguyên Trừng. Đây thật sự là một phương pháp đặc sắc trong dòng văn học dã sử. Trong các tiểu thuyết dã sử của cả phương Tây (“Ai-van-hô”, “Robinhood”, “Chiến tranh và hòa bình”…) hay phương Đông (“Thủy Hử”, “Tam Quốc diễn nghĩa”, “Nho lâm ngoại sử”…), các nhân vật thường ở ngôi thứ ba nhằm mục đích thể hiện tính khách quan trong các sự kiện. Nhưng ở tác phẩm này, mọi sự kiện, xung đột đều được nhìn nhận và đánh giá qua con mắt của Hồ Nguyên Trừng, tác giả “Nam ông mộng lục”. Bằng phương pháp này, tác phẩm tạo được một hiệu ứng khác so với những tác phẩm văn học dã sử trước đó. Người đọc cảm nhận thấy mình như người trong cuộc, cũng được chứng kiến tận mắt cuộc cách tân thời ấy. Cũng qua nhân vật Hồ Nguyên Trừng, nhà văn gửi gắm được suy tư, nỗi đau thân phận của người trí thức trước bao biến thiên của lịch sử.

*
Hồ Quý Ly và Hồ Nguyên Trừng

Hồ Nguyên Trừng là một nhân vật tài hoa ở thời kỳ ấy. Theo sử sách ghi chép lại, ông là người toàn đức toàn tài, văn võ song toàn. Bản thiết kế thành Tây Đô (Thanh Hóa) chính là của ông. Ông còn sáng chế ra “Thần Cơ hỏa sang”, một loại súng trường đầu tiên ở đất Việt. Khi quân Minh xâm chiếm Đại Việt, cha con Hồ Qúy Ly bị áp giải về Trung Quốc chịu phạt, Hồ Nguyên Trừng nhờ tài năng xuất chúng mà vẫn được cất nhắc làm quan, đến chức Công bộ thượng thư. Những năm tháng ở đất Bắc, ông đã viết tác phẩm “Nam ông mộng lục” nổi tiếng. Trong lời tựa của “Nam ông mộng lục”, tác giả có viết: “Những nhân vật trong sách, một thời phồn hoa, rồi thời cuộc biến đổi không còn để lại vết tích, chỉ còn một mình tôi biết được và kể ra, như vậy chẳng phải mộng là gì”. Hồ Nguyên Trừng trong “Hồ Qúy Ly” không những có đầy đủ tài năng ấy mà còn chấp chứa biết bao tâm sự ưu thời mẫn thế, thân phận của tài năng bị chèn ép giữa các thế lực chính trị.

Ấn tượng sâu đậm nhất mà người đọc cảm nhận được ở Hồ Nguyên Trừng đó chính là một sự chán nản triền miên trước thời cuộc. Trong khi Hồ Qúy Ly, Hồ Hán Thương, Nguyễn Cẩn… thậm chí là cha con Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi lao theo cuộc cách tân viển vông; phía bên kia là Trần Khát Chân và quý tộc nhà Trần ráng hết sức chống đối, thủ cựu và tìm mọi cách để kéo dài triều đại… thì Hồ Nguyên Trừng đắm mình trong nghệ thuật, trong những mối tình say đắm. Cả hai mối tình, thứ nhất với quận chúa Quỳnh Hoa, thứ hai với cô kỹ nữ Thanh Mai, đều bị bao vây bởi những âm mưu, thủ đoạn chính trị. Thế lực thủ cựu của quý tộc nhà Trần những mong có thể dùng “mỹ nhân kế” để gây ảnh hưởng và ràng buộc ông. Nhưng bằng trái tim đa cảm của nghệ sĩ và tấm chân tình tha thiết, ông đã lôi kéo hai người đẹp về phía mình, để họ thoát khỏi những âm mưu thâm độc và cũng đáp lại ông bằng một tình yêu cao cả, thiêng liêng. Hồ Nguyên Trừng đã phải đau đớn mà thốt lên rằng: “triều đình cũng bị chia rẽ thành hai phe: phe Tôn thất nhà Trần và phe của cha tôi. Và hậu quả tất nhiên là những sự lôi kéo. Trong đám cưới của tôi, tôi hiểu rằng tôi là một con mồi mà cha tôi quăng ra giữa dòng nước, họ nhà Trần như một con cá lớn đớp lấy tôi, và cha tôi cầm chiếc cần câu. Tôi là kẻ đứng giữa, và hai bên cùng co kéo.” Suy cho cùng, thân phận chung bậc trí giả cũng chỉ là như vậy. Kẻ đọc sách thời nào cũng mong được mang tài kinh luân của mình ra để giúp thiên hạ, nhưng thực ra họ trở thành những con cờ cho các thế lực chính trị lớn nắm quyền bính trong tay điều khiển. Khi cần chúng trọng dụng, khi phật ý chúng bạc đãi. Trong lịch sử có biết bao ví dụ như thế: Hán Cao Tổ giết Hàn Tín, Chu Nguyên Chương diệt Minh giáo, Nguyễn Trãi bị oan ở Lệ Chi Viên… chẳng phải là những chứng nhân quá rõ ràng sao? Là kẻ đọc sách, thiết nghĩ nhà văn Nguyễn Xuân Khánh cũng thấu hiểu điều ấy. Ở thời của ông, không ít nghệ sĩ, trí thức tài năng những mong dùng tài năng của mình dành độc lập, tự do cho dân tộc, xây dựng một đất nước dân chủ, văn mình… Để rồi, khi thành công, họ nhận được những gì? Chẳng gì cả ngoài hai bàn tay trắng. Thế lực chính trị đã từng giương cao lá cờ chính nghĩa lúc này mới bộc lộ sự vị kỷ và bảo thủ mà vụ án Cải cách ruộng đất và Nhân văn – Giai phẩm chẳng phải là minh chứng rõ ràng đó sao. Vừa là người trong cuộc, lại vừa là người đứng ngoài mọi tranh chấp xấu xa, Hồ Nguyên Trừng chỉ còn biết giữ một tâm trạng là “buồn” – cái buồn của lũ người “lạc loài”, bị “quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh”. Không chỉ có Hồ Nguyên Trừng mà biết bao tài năng trong thời ấy cũng có chung tâm trạng như Trần Khát Chân, Phạm Sinh, hay thậm chí là ông vua già Trần Nghệ Tông, ông vua trẻ Trần Thuận Tông… Tâm trạng của Hồ Nguyên Trừng cũng chính là tâm trạng của ông Nguyễn Xuân Khánh và nhiều trí thức, văn nghệ sĩ thời đại đứng trước những xung đột của các thế lực chính trị và một xã hội bất công, nghèo nàn, lạc hậu mà chỉ biết buông tiếng thở dài bất lực.

Bài học cải cách từ cuộc Canh tân của Hồ Quý Ly

Giá trị lớn nhất của tác phẩm “Hồ Qúy Ly” nằm ở bài học lịch sử : “Canh tân”. Có thể xem cuộc “Canh tân” của Hồ Qúy Ly là cuộc canh tân táo bạo nhất cho đến thời điểm đó. Những cải cách của ông được ghi lại trong cuốn “Minh đạo” (dịch Nôm là “Con đường sáng”).

Đối với “Minh đạo” cũng như cả cuộc canh tân, trí giả thời đó, kẻ chê, người khen, cũng có kẻ bằng mặt mà chẳng bằng lòng… Nhưng rõ ràng, tại thời điểm đó, một cuộc cải cách là cần thiết. Trong câu chuyện, tác giả để Hồ Qúy Ly nhấn mạnh về một “phương thuốc lớn”. Việc làm chính trị chẳng khác gì y đạo, cũng có bắt bệnh, cũng có kê đơn. Nhưng người làm nghề y mỗi lần chỉ có thể bắt bệnh kê đơn cho một người, còn kẻ làm chính trị thì phải bắt bệnh, kê đơn cho cả một dân tộc. Để bắt được bệnh đã khó, không khéo không có bệnh lại chẩn đoán thành có bệnh, có bệnh lại cứ tưởng rằng vô sự; nhưng bắt được đúng bệnh rồi thì kê đơn ra sao đây, âu cũng là việc khó. Cái căn bệnh ấy, chính ông vua già Trần Nghệ Tông là người nhận thức được hơn ai hết. “Chính ông là bà đỡ cho những cải cách của Quý Ly, đã giúp Quý Ly tiêu diệt những đối thủ, ngay cả khi đối thủ ấy là con cháu ông. Lại cũng vẫn chính ông là người muốn kéo dài đến vô hạn cơ nghiệp của nhà Trần, tổ tiên ông, mặc dầu ông biết điều đó không thực tế, mặc dầu ông biết các tôn thất, các cựu thần nhà Trần ở mọi nơi hiện đang thối ruỗng. Vậy ông đang tự chống lại bản thân. Ông có miếng thịt thối, muốn cắt đi, nhưng vì nó là cơ thể ông nên không đành lòng.” Đó chẳng phải cũng chính là căn bệnh thời đại của chúng ta hay sao? Miếng thịt thối ấy ai là người dám cắt bỏ để giữ cho cơ thể được khỏe mạnh? Hay cứ để nó đấy vì tiếc xương thương thịt rồi hoại tử mà chết? Đứng trước vận mệnh của dân tộc: hoặc là đổi mới hoặc là bại vong, việc từ bỏ những quyền lợi của một tổ chức cầm quyền để thực hiện một cuộc Cách mạng toàn diện là điều cần thiết. Nhà Trần đã không dám dũng cảm thực hiện sứ mạng ấy và chuốc lấy bại vong, là điều đương nhiên.

Bài học Canh tân trong “Hồ Qúy Ly” còn là bài học về lòng dân. Đối lập với phe Canh tân là phe thủ cựu, đáng tiếc rằng phe thủ cựu lại nắm phần đông. Nhưng tại sao những biện pháp của Hồ Qúy Ly là cần thiết mà triều nhà Hồ vẫn thất bại thảm hại? Trước hết phải nói rằng vì Hồ Qúy Ly quá nôn nóng. “Minh đạo” là hướng đi tiến bộ, nhưng không thể một sớm một chiều có thể thực thi. Điển hình nhất là việc sử dụng tiền giấy. Người dân ta thời ấy chưa ý thức được giá trị của tiền tệ và chưa có một nền tài chính hoàn thiện, việc sử dụng tiền giấy thực là chuyện viển vông. Nhưng sai lầm nghiêm trọng hơn là việc xây thành Tây Đô. Giữa lúc ngân sách quốc gia thiếu hụt trầm trọng, người dân còn sống lầm than, chiến tranh với Chế Bồng Nga vừa mới kết thúc và sắp sửa đương đầu với quân Trung Hoa, thành Tây Đô chẳng khác nào được xây lên bằng xương bằng máu của dân khiến người dân oán than. Quan trọng hơn cả, chính tầng lớp trí giả thời ấy cũng không đồng tình với các biến pháp của Hồ Qúy Ly. Thái độ của Trần Khát Chân, Phạm Sinh, Sử Văn Hoa và thậm chí cả Hồ Nguyên Trừng thể hiện rõ điều ấy. Tại sao vậy khi nhà Hồ luôn thực hiện các chính sách chiêu hiền đãi sĩ? Ấy là bởi Hồ Qúy Ly quá cố chấp, không muốn nghe lời can gián, luôn đàn áp phe bất đồng quan điểm mà không hề tiếp thu hay thuyết phục họ. Bởi vậy mà người đời quay lưng với biến pháp hay nói đúng hơn là quay lưng với nhà Hồ, khởi nghĩa của nông dân nổi lên khắp nơi, bên ngoài thì giặc phương Bắc dòm ngó, cha con Hồ Qúy Ly cuối cùng vẫn chung một kết quả với nhà Trần.

Qủa thực, phương thuốc lớn cho một dân tộc không dễ kê đơn. Hồ Qúy Ly bắt mạch được căn bệnh của thời đại mình, kê được đơn thuốc rồi nhưng vì không biết dùng đúng thời điểm và liều lượng mà dẫn đến thất bại. Không chỉ thế, việc dùng thuốc sai cách ấy ảnh hưởng tới sự tồn vong của dân tộc. Nếu như thời ấy hai gia tộc Trần – Hồ cùng bắt tay nhau để thực hiện Duy tân thì triều đình nhà Minh đã chẳng giương lá cờ “Phù Trần diệt Hồ” ngụy tạo, đưa hàng vạn quân lính vào xâm lược nước ta được. Đó là bài học xương máu cho chúng ta trong công cuộc cải cách và thực hiện tiến trình dân chủ ở hiện tại và tương lai.

Xem thêm: Lò nướng thịt bằng than tự quay ln, lò nướng than hoa tự xoay

Hà Thủy Nguyên

(*)Ông Nguyễn Xuân Khánh bắt đầu sự nghiệp viết lách từ năm 1955, cùng thời với Nguyên Ngọc, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng… Khi tên tuổi Nguyễn Xuân Khánh mới chớm xuất hiện nhờ vài truyện ngắn thì sự kiện “Nhân văn giai phẩm” khiến ông “chìm xuồng” cùng biết bao cây bút khác. Sau khi bị treo bút, ông phải bươn chải đủ mọi nghề để kiếm sống, nào thì làm thợ may 7 năm, bán máu 3-4 năm, thợ khoá, dịch sách, hợp tác xã mua bán và lao động cải tạo cùng với lưu manh đĩ điếm 1 năm.

Khi bắt đầu xuất bản “Hồ Qúy Ly”, ông Xuân Khánh vẫn chỉ là ông thợ cạo ở vỉa hè Hà Nội. Cho đến bây giờ, ông có tất cả 4 tác phẩm là “Hồ Qúy Ly”, “Trư cuồng” và “Mẫu Thượng Ngàn” và mới đây là “Đội gạo lên chùa”. Riêng “Trư cuồng” được viết bằng một hình thức đặc biệt của văn học Nam Mỹ – văn học hiện thực huyền ảo. “Trư cuồng” bị cấm xuất bản ở Việt Nam vì tác phẩm phản ánh xã hội Việt Nam trong thờ kỳ bao cấp. Mặc dù sau này ông viết “Mẫu Thượng Ngàn”, “Đội gạo lên chùa” cũng thu hút được nhiều độc giả, nhưng tác phẩm tâm huyết cả cuộc đời ông chính là “Hồ Qúy Ly”, mới thực sự ám ảnh người đọc.


*
*

Nhắc đến Triều Trần ai cũng nhắc đến chiến tích vang dội 3 lần chặn đứng vó ngựa Nguyên Mông, với Bạch Đằng Giang lịch sử nhuộm máu quân thù. Nhắc đến Phật Hoàng Trần Nhân Tông với thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Nhưng rồi đến cuối nhà Trần thì non sông Đại Việt trong cậy vào những ai? Vào ông vua già cỗi Nghệ Tông ư? Hay Thuận Tông lòng đã chán ngán tất cả một lòng chỉ muốn đi tu gửi mình nơi cửa Phật? Hay trông chờ vào Thái tử An mới 3 tuổi đầu? Triều Trần càng về sau nhất là đến thời Nghệ Tông đã không còn chút nào hình bóng của vinh quang xưa. Trong triều không còn tướng giỏi ngoại trừ Trần Khát Chân và Trần Nguyên Hãn. Tình hình kinh tế xã hội suy yếu, lòng dân đã mỏi mệt mất niềm tin vào triều đình.

Cả triều đình giờ chỉ còn trông chờ vào những lễ hội được tổ chức xa hoa, tốn kém, phô trương cái sức mạnh vốn đã suy sụp từ lâu để dân vui, để dân tin. Lúc này Đại Việt đang tứ bề thọ địch. Phía Bắc với nhà Minh mới thành lập thế đang rất mạnh hăm he muốn xâm lăng Đại Việt, trong nước thì loạn lạc khắp nơi, giặc Chiêm của Chế Bồng Nga mấy lần tràn xuống Đại Việt cướp phá rồi lại rút về, như thể tập dượt chuẩn bị cho trận đánh lớn tới Thăng Long. Triều Trần cần gấp một sự thay đổi nhưng ai dám thay đổi vì bách tính? Triều Trần vẫn còn đó hai danh tướng, vẫn còn đó uy danh 3 lần đánh thắng giặc Nguyên Mông để bám víu.

Vẫn còn đó những bậc tiên tổ không thể nào nói thay đổi là thay đổi. Nghệ Tông cũng hiểu cần phải thay đổi để giữ cho thế nước vững bền, nhưng ông không thề chịu nổi ý nghĩ họ Trần cuối cùng sẽ mất vào tay ông. Lúc ở Hội thề, nhìn vào gương mặt từng bá quan văn võ ông như muốn gào thét trong đầu, ai đó, ai đó hãy đứng lên đi, hãy bày cho ta kế sách nào thay đổi cái xã tắc này, thay đổi được cái vận nước đang ngày một đi xuống này!! Hãy đứng lên đi, cho ta một cái kế sách đi! Nhưng nào có ai?? Như Nguyễn Cẩn đã nói với Thuận Tông:

“Nhưng tại sao đất nước vẫn rơi vào loạn lạc? Vau không thương dân ư? Thương chứ! Vua giảm cả sự xa hoa, yến tiệc của riêng mình, sao nơi hang cũng ngõ hẻm vẫn vang lên lời kêu than đói khát? Bởi vì các ông vua đó không biết tới sự sấm ran chớp giật; nói đến chuyện thay da đổi thịt là xám ngoét, run rẩy. Non sông qua một thơi gian dài trơ ì, đã trở nên cứng quèo, thối rữa. Hồn núi sông như ngủ mơ trên đống vàng. Tất cả trở nên ù lì, hèn yếu; đâu đâu cũng bốc lên mùi xác rữa. Cần phải lột xác. Non sông gấm vóc cần phải hồi xuân, dù phải qua máu lửa, chết chóc, tàn phá, lụi tàn…

“Qua thời lột xác, non sông sẽ bừng tỉnh dậy…. Thế đấy! Bi thương lắm! Trong cuộc đổi đời, biết bao nhiêu người bị cơn bão cuốn phăng, bị ném vào lửa không thương xót… Cũng chính vì vậy, nên lúc này, ta cần có một minh quân, một ông vua đại trí…”

Ông vua ấy là ai? Còn ai nữa ngoài Hồ Quý Ly?

Phải chăng vì thế mà Nghệ Tông và cả Thuận Tông đều dựa dẫm vào Hồ Quý Ly! Khi đọc Hồ Quý Ly, tôi lại mường tượng ra Trần Thủ Độ. Hai con người đầy mưu mô, đầy thủ đoạn, cứng rắn đến tàn nhẫn và đầy tham vọng cùng ra tay mở ra vương triều mới, Trần Thủ Độ là người mở ra triều Trần đến Hồ Quý Ly là người kết thúc triều đại ấy lập ra nhà Hồ. Người ta hay nói làm vua thì ngoài trí tuệ, ngoài cái chí của kẻ ở ngôi Cửu ngũ Chí tôn thì cũng cần lắm sự nhân từ, khoan dung độ lượng nhưng nếu hiền quá thì cũng không thể làm vua nổi. Hay phải chăng khi đã làm vua thì phải bất chấp thủ đoạn? Trần Thủ Độ bao người căm hận ông vì thủ đoạn tàn nhẫn nhưng nhờ có ông mà nhà Trần có hơn 200 năm hiển hách, vinh quang chói lọi trong sử sách.

Hồ Quý Ly sinh ra đúng thời nhà Trần ngày càng nát bét, và đến thời của ông thì nhà Trần cáo chung và kết thúc. Ánh hào quang đã tắt lịm như hơi tàn mỗi ngày của lão Nghệ Tông kia, hèn nhát, nhu nhược đến sau này con trai ông, Thuận Tông lên ngôi cũng thế. Hồ Quý Ly một tay che trời, thao túng cả triều đình. Thâm tâm ông biết triều Trần chẳng còn mấy hơi sức nữa, sau khi dẹp hai loạn lớn là Phạm Sư Ôn và giặc Chiêm Thành, đã đến lúc phải thay đổi. Nghĩ là làm ông liền cho thay tiền đồng bằng tiền giấy, đặt ra hạn điền, hạn nô, chính sách thuế khóa và dự trữ thóc gạo, và dời đô về Thanh Hóa.

Nhưng thương thay cho ông, thương thay cho triều Trần khi lòng dân vẫn hướng về những uy danh cũ, vẫn hướng về triều Trần đã mục nát. Chẳng ai chấp nhận ông, chẳng ai hiểu nổi những cải cách của ông để làm gì cho dù những cải cách ấy phải đến thời Lê Sơ hay sao đó nữa mới phát huy tính hiệu quả và đúng đắn của nó. Cải cách, đầu rơi, máu chảy đến cuối cùng ông còn lại được gì? Chỉ còn lại cái tòa thành đen ngòm, xám ngoét hay giang sơn phải nằm dưới gót giày giặc Minh 20 năm. Tiếc cho ông nhẽ ra với cái chí lớn đến thế, với khối óc mẫn tiệp đến thế nếu sinh ra vào thời điểm khác thì có lẽ ông đã trở thành lương đống của nhà Trần, và đưa nhà Trần đến thời cực thịnh hơn nữa.

Thế gian hiểu ông thì ít mà oán trách ông thì nhiều bởi tay ông vấy đầy máu họ Trần. Nhất là chính sách dời đô, đến giờ mình vẫn không hiểu lý do tại sao ông lại dời đô từ Thăng Long về Thanh Hóa? Tây Đô lúc ấy có gì hơn được Thăng Long? Nhưng có lẽ cũng như muôn dân nhà Trần thời ấy, nào mấy ai hiểu được tầm suy nghĩ của Hồ Quý Ly???

Vẫn như mọi tiểu thuyết khác, ở Hồ Quý Ly, tác giả Nguyễn Xuân Khánh đã xây dựng nên cả một bức tranh toàn cảnh khổ lớn về bối cảnh cuối đời nhà Trần đổ nát, điêu tàn với những suy vong, với những âm mưu khắp trong ngoài triều, đời sống muôn dân đói khổ, mặc dù vẫn còn đó những dấu ấn văn hóa, những lễ hội, những con người giản dị, hào hùng.

Đọc Hồ Quý Ly mình thêm một lần nữa thấy ngợp trước cơ man kiến thức của cụ, về văn hóa, về những nét sinh hoạt xưa của con dân, của vua tôi thành Thăng Long ngày ấy. Cụ đã xây dựng nên hình ảnh Hồ Quý Ly chân thực, nhân vật còn gây tranh cãi rất nhiều như một người có cả ưu lẫn khuyết, vừa ác độc, tàn nhẫn nhưng cũng có lúc ông yếu mềm, khi ông khóc trước bức tượng Công chúa Huy Ninh, người vợ hiền thảo của ông, hay những lúc ông đau xót nhưng phải dằn mình cứng rắn trước tình cảnh mẹ con Công chúa Thánh Ngẫu và Thái tử An.

Cụ không hoàn toàn xem Hồ Quý Ly là nhân vật xấu xa hoàn toàn, mà là do thời thế ông ta không thể làm khác. Mọi phán xét cụ xin dành cho độc giả. Những nhân vật trẻ tuồi với trí tuệ thông thái, sức trẻ hừng hực như Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn Cẩn, Nguyễn Trãi cũng được ông khắc họa tài tình. Hồ Quý Ly với gần 700 trang giấy đôi lúc khiến ta mệt mỏi bởi lượng kiến thức quá đồ sộ, nhưng toàn truyện thấm đẫm Phật tính.

Ta như có thể nghe thấy tiếng gõ mõ, tiếng tụng kinh vẳng ra từ những trang sách, nó làm dịu đi những cảnh máu chảy đầu rơi trong truyện, nó xoa dịu đi những âm mưu, những dối trá chốn cung đình, nó xoa dịu ta những khi ta thấy mình quá oải khi phải đọc cho hết gần 700 trang giấy. Nhưng đó là nỗi mệt mỏi đáng giá mà đúng không?

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

x

Welcome Back!

Login to your account below

Retrieve your password

Please enter your username or email address to reset your password.